- Luận Án Tiến Sĩ - HT Tịnh Hạnh
- HT Tịnh Hạnh : Sinh hoạt và Giảng Phật Pháp - Taipei
- Lời nói của Vị Chủ Trì dịch Đại Tạng Kinh - HT Tịnh Hạnh
- Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh
- Lễ Tiểu Tường Cố Hòa Thượng thượng Tịnh hạ Hạnh
- Cáo Bạch Tang Lễ Hòa Thượng Thích Tịnh Hanh
- Điện Thư Phân Ưu
- Hình Ảnh Tang Lễ
- Điếu Văn Tưởng Niệm
LUẬN ÁN TIẾN SĨ - H.T. Thích Tịnh Hạnh

Sự hiện diện của Việt tạng đối với dân tộc ta đương nhiên cũng là như thế, về mặt nội dung, Việt tạng tiếp nạp cả Đại tạng Bắc truyền và Đại tạng Nam truyền. Về phần Đại tạng Bắc truyền, quan trọng nhất được chọn từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Tục Tạng Kinh...; thêm vào những sắc thái đặc biệt của Đại tạng Tây Tạng, Nhật Bổn; những văn bản tư tưởng Phật giáo của các vị Cao tăng học giả Đông, Tây cận đại và hiện đại: tất cả vào khoảng một ngàn tập, mỗi tập dày một ngàn trang khổ 17 x 24 cm, như quý vị đang có trước mắt.
Chỉ nói sơ qua, đã mường tượng được công việc thực hiện Việt tạng là khó khăn như thế nào. Thử liếc nhìn qua nước Nhật Bổn chẳng hạn: chỉ mỗi phần việc biên tập tu đính dành cho bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (vì toàn bộ Đại Tạng Trung văn và Đại Tạng Nhật Bổn đã hoàn thành từ lâu), do hai học giả Phật giáo lỗi lạc của Nhật là Cao Nam Thuận Thứ Lang (Junjiro Takakusu) và Độ Biên Hải Húc (Watanabe) chủ trì, cùng với sự cộng tác của nhiều học giả Phật giáo và Đông phương học mà phải cống hiến ròng rã mười ba năm trí tuệ tâm huyết, mới tạm gọi là hoàn chỉnh.
Việc đã đành là khó, ngàn khó vạn khó, nhưng lẽ nào thấy khó mà không làm. Tự lượng sức mình có hạn, nhưng vì mỗi chút lòng thao thức cho sinh mệnh, tiền đồ của Phật giáo và dân tộc Việt Nam, chúng tôi đã mạo muội đứng lên khởi xướng, những mong một gọi nghìn thưa: mỗi Phật tử ngườiViệt, xin ý thức trách nhiệm của mình, tự nguyện góp phần công đức vào sự nghiệp thực hiện bộ Việt tạng này, chẳng những là một phương tiện thù thắng để hoằng dương Chánh pháp, mà còn là đối với nền văn hóa dân tộc được cống hiến vô cùng sâu rộng, cũng xứng đáng là một tông giáo có mặt trên đất nước Việt Nam ngót hai ngàn năm lịch sử.
Hôm nay Việt tạng bắt đầu xuất bản vì là lần đầu, mặc dầu chúng tôi cố gắng đến mức tối đa, nhưng chắc cũng khó tránh khỏi những khuyết điểm về hình thức lẫn nội dung ; hy vọng những vị cao kiến chỉ dạy để kịp thời sửa lại trong những tập sau cũng như lần tái bản. Ở đây chúng tôi xin ghi ơn những vị tiền bối đã âm thầm góp sức, cũng như nhiều vị phụng hiến trí tuệ và mồ hôi qua sáu năm và những ngày sắp tới vào công việc gian lao này. Sau hết, không quên cảm ơn Chính phủ Việt Nam trong thời gian qua, đã dành cho chúng tôi nhiều sự dễ dàng trong khi thực hiện Đại Tạng Kinh chữ Việt.
Kính chúc Quý vị vô lượng cát tường.
Viết tại chùa Pháp-Bảo - Thủ Đức.
Ngày 06 tháng giêng năm Canh thìn P.L : 2544 (2000)
Sa môn Thích Tịnh Hạnh.
Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh, người có cuộc sống giản dị, mộc mạc và cần kiệm khắc khổ, qua hai mươi mấy năm chỉ ăn cơm gạo lức với muối mè, dốc toàn tâm toàn lực đầu tư vào việc vận động phục hưng Phật giáo Đài Loan và tích cực đào tạo nhân tài ưu tú cho Đài Loan. Năm 1994, Ngài không quên tiến hành kế hoạch phiên dịch Đại Tạng Kinh chữ Việt đem tất cả tiền lương dạy trong Viện Đại học của mình cống hiến cho sự nghiệp dịch Đại Tạng Kinh. Ngài đã kết hợp với các chuyên gia, học giả Việt Nam và Đài Loan, đã trải qua 8 năm tiến hành phiên dịch Đại Tạng Kinh không ngừng nghỉ, tính đến nay (cuối năm 2003) đã dịch xong gần như trọn bộ hàng ngàn bộ Kinh, Luật, Luận. Đây là một thành tích cụ thể nhất, nhưng thay vào đó cùng với thời gian, mái tóc của Ngài đã bạc thêm nhiều.
Gieo trồng ruộng phước.
Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh kêu gọi những người Việt Nam dù là Phật tử hay không phải Phật tử cũng nên đồng phát tâm hộ trợ sự nghiệp dịch Đại Tạng Kinh, để lưu truyền mãi mãi về sau. Công đức này thật vô lượng vô biên, khó nghĩ bàn. Đại Tạng Kinh chữ Hán dịch thành chữ Việt được kết quả viên mãn, thì chẳng những đối với người Phật tử Việt Nam được tiện tham cứu, học tập đạt đến giác ngộ giải thoát mà đối với nền văn hóa dân tộc cũng được cống hiến vô cùng lớn lao. Chúng tôi xin chân thành kính giới thiệu đến quý Chùa, Tăng chúng và chúng Phật Tử tùy hỷ tham gia ủng hộ, để cho Phật Giáo Việt Nam sớm ngày đơm hoa kết quả mỹ mãn. Đó cũng chính là tự mình đã gieo trồng "Chủng tử Phước Huệ cho chính mình".

(1934-2015)
Hòa thượng sinh năm Giáp Tuất (1934) tại Thôn Mỹ Đức, tỉnh Ninh Thuận. Ngài là con một trong gia đình lại là cháu đích tôn từ đường, thừa hưởng điền sản hương hỏa từ Tổ tiên trong năm đời để lại.
Xuất gia năm Canh Dần (1950) tại chùa Thiên Hưng, thôn Vân Sơn, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 42 và sau đó tu học tại Phật Học Đường Ninh Thuận.
Năm Nhâm Thìn (1952) vào tu học tại Phật Học Đường Nam Việt, chùa Ấn Quang.
Năm Quý Mão (1963) trụ trì chùa Giác Tâm tỉnh Gia Định và giữ chức chủ tịch Ủy ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo tỉnh Gia Định trong cuộc tranh đấu Phật Giáo năm 1963.
Năm Bính Ngọ (1966) đậu Cử Nhân Phật Học Viện Đại Học Vạn Hạnh và làm giáo sư dạy trường Trung Học Bồ Đề.
Năm Kỷ Dậu (1969) được học bổng du học Đài Loan tại trường Đại Học Quốc Lập Sư Phạm Đài Loan.
Năm Nhâm Tý (1972) đậu Cao Học Văn Học với tiểu luận "Trung Việt tự âm tỉ giáo nghiên cứu" (Nghiên cứu so sánh âm chữ Hán Việt với âm chữ Trung Quốc).
Năm Kỷ Mùi (1979) thành lập giảng đường Linh Sơn Đài Bắc - khai sáng nguyệt san Hiện Đại Phật Giáo.
Năm Canh Thân (1980) thành lập lớp Cao học Phật học tại Đài Bắc.
Năm Tân Dậu (1981) trình luận án Tiến sĩ Triết học và Văn học với đề tài "Nghiên cứu về Hàn Dũ phê bình Phật Giáo".
Năm Quý Hợi (1983) giảng sư diễn giảng trên đài truyền hình Đài Bắc, liên tục nhiều năm về chủ đề tư tưởng Phật Giáo, mỗi tuần một giờ.
Năm Ất Sửu (1985) sáng lập và trở thành Viện Trưởng Học Viện Phật Giáo Trung Quốc.
Từ năm Bính Dần (1986) tham dự nhiều hội nghị và hội thảo quốc tế.
Năm Mậu Thìn (1988) qua Mỹ vận động thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được Đại Hội bầu làm Chủ tịch.
Khai sơn chùa Thiền Lâm Linh Sơn trên 18 mẫu đất tại Thạch Định, Đài Bắc.
Năm Canh Ngọ (1990) giảng dạy môn Đại cương triết học và tỷ giáo tôn giáo tại Trường Quốc Lập Cao Đẳng Sư Phạm Đài Bắc.
Năm Nhâm Thân (1992) được phong chức Giáo sư trường Đại Học Quốc Lập Trung Hưng và trường Đại Học Phùng Giáp.
Năm Giáp Tuất (1994) trở về Việt Nam, đứng ra huy động, tổ chức, đài thọ mọi chi phí, tìm nhân tài, huấn luyện dịch Đại Tạng Kinh từ Trung văn sang Việt ngữ.
Năm Đinh Sửu (1997) được Đại Hội Phật Giáo Đài Bắc bầu làm Ủy viên Thường Trực Hội Phật Giáo Đài Bắc.
Năm Tân Tỵ (2001) nhận chức Xử lý thường vụ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Linh Sơn thế giới.
Năm Ất Dậu (2005) sau khi Hoà Thượng Thích Huyền Vi viên tịch được Giáo Hội suy tôn ngôi Đệ Nhị Tăng Thống lãnh đạo toàn bộ GHPGLSTG.
Năm Mậu Tý (2008) tiếp nối hoài bảo giáo dục của Cố Đại Lão HT Thích Huyền Vi, xây dựng Viện Đại Học Đông Phương Linh Sơn Thế giới.
Hóa duyên ký tất, nhân duyên Ta bà quả mãn, Ngài an nhiên thu thần Viên tịch vào lúc 11.30am ngày thứ sáu, 22 tháng 02 năm Ất Mùi (10/04/2015) tại Đài Bắc, Đài Loan.
Trụ thế: 81 Xuân.
Tác phẩm:
- Nhiều bài viết đăng trong Phật Giáo Hiện Đại.
- Trung Việt tự âm tỷ giảo nghiên cứu.
- Nghiên cứu về Hàn Dũ phê bình Phật Giáo.
- So sánh sự tương đồng và dị biệt giữa Pháp tướng Duy thức học và Pháp tánh Bát Nhã học.
- Luận lý học Phật Giáo.